This is default featured slide 1 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.This theme is Bloggerized by Lasantha Bandara - Premiumbloggertemplates.com.

This is default featured slide 2 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.This theme is Bloggerized by Lasantha Bandara - Premiumbloggertemplates.com.

This is default featured slide 3 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.This theme is Bloggerized by Lasantha Bandara - Premiumbloggertemplates.com.

This is default featured slide 4 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.This theme is Bloggerized by Lasantha Bandara - Premiumbloggertemplates.com.

This is default featured slide 5 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.This theme is Bloggerized by Lasantha Bandara - Premiumbloggertemplates.com.

1/18/2010

Cơ hội mua sắm lớn nhất tại ichoice




Lối tư duy đáng sợ trong các ngành kinh tế






Kinh doanh với nhiều hình thức khác nhau là hoạt động mạnh mẽ và rộng rãi nhất ở mỗi quốc gia. Dù đạt được những thành tích ấn tượng, nhưng lịch sử cũng chứng kiến những vết hoen ố xuất phát từ các quyết định sai lầm.

Một bản tổng hợp hấp dẫn về thực tiễn và các vấn đề tiêu biểu của “hiện tượng xuống dốc của người Mỹ” đã được trình bày trong tác phẩm Thriving On Chaos (Thịnh vượng trong hỗn loạn) của tác giả Tom Peter. Hơn nữa, những nghiên cứu gần đây cho thấy các cấp lãnh đạo và nhân viên các tập đoàn thường sử dụng cùng một tiêu chí ra quyết định như các quan chức chính phủ - tức chỉ nhằm bảo vệ chiếc ghế của họ - nên đã không hoàn thành dự án hoặc không đạt được mục tiêu chung của tổ chức.

Hãng Mobil Oil từng gặp khó khăn với tham vọng đa dạng hóa hoạt động khi hãng tiếp quản Montgomery Ward - nhà phân phối hàng bằng đường bưu điện – để rồi phải đóng cửa vài năm sau đó. Tập đoàn dầu hỏa Exxon cũng từng làm một cuộc thâm nhập bất thành vào lĩnh vực thiết bị điện tử, và cho thấy khả năng kiểm soát hoạt động yếu kém khi để xảy ra vụ tràn dầu kinh hoàng ở cảng Valdez – vùng biển Prince William Sound. Các công ty Nhật, như Eidai, Yashika hay tập đoàn công nghiệp nặng Saseho đều lâm vào phá sản vì họ không có một phương thức hoạt động linh hoạt và không thể đáp ứng được những thay đổi trong cơ cấu ngành của mình ở Nhật Bản…

Người Nhật hầu như sẵn sàng “thử nghiệm” cho ra nhiều mẫu thiết kế khác nhau để khách hàng của họ tha hồ lựa chọn. Còn người Mỹ thì ngược lại, họ chi tiền vào việc nghiên cứu thị trường (thu thập một cơ sở dữ liệu khổng lồ) chỉ để đi đến kết luận rằng họ biết rõ khách hàng của họ muốn gì.

Khả năng học hỏi yếu kém của các tập đoàn trong suốt những năm 1970 và 1980 thể hiện ở chỗ các công ty không nhận thức được một cách chính xác vấn đề và không xác định được mục đích các bước thay đổi của họ.

Sai lầm lớn nhất của ngành đường sắt Mỹ là hơn một thế kỷ qua họ cứ bám chặt vào một sứ mệnh duy nhất: bắt đầu và kết thúc với công nghệ vận chuyển bằng xe lửa từ nơi này đến nơi khác. Họ không nhận ra rằng thế giới đã phát triển, rằng tàu hỏa - một thời được xem là thành tựu kỹ thuật hiện đại - giờ đã trở thành bình thường, rằng thách thức mới của ngành đường sắt là phải cạnh tranh để giành khách hàng trong thị trường vận chuyển gồm đường bộ, đường biển và đường hàng không.

Hãi hùng trong tư duy cá nhân

Hầu hết mỗi người trong chúng ta đều có liên quan đến các vấn đề trong hoạt động của chính quyền và các tổ chức kinh tế bởi chúng ta đồng thời đóng vai trò là công dân, là người lao động hoặc khách hàng của một hay nhiều công ty nào đó. Mặc dù mỗi người đều có thể đảm nhận một vai trò khác nhau trong tư duy đột phá để giải quyết vấn đề, nhưng điều làm chúng ta trăn trở nhất vẫn là những vấn đề của chính bản thân chúng ta.

Thống kê về các vấn đề cá nhân ở Mỹ cho thấy con người nói chung còn thiếu khả năng giải quyết triệt để các vấn đề của mình: tỷ lệ ly hôn gần 50% cho thấy các cá nhân không thể giải quyết trục trặc trong quan hệ gia đình; thực trạng mắc nợ lớn và tỷ lệ tiết kiệm thấp tính trên đầu người là bằng chứng cho thấy sự thiếu khả năng xử lý vấn đề tài chính cá nhân; tỷ lệ người béo phì tăng cao phản ánh một lối sống hời hợt, không kiểm soát được bản thân của các cá nhân. Bất kỳ biểu hiện tương tự nào bạn nhìn thấy về các thất bại cá nhân và xã hội đều là những vấn đề cần phải có giải pháp.

Cách tiếp cận của bạn trong việc tìm kiếm giải pháp cho những vấn đề cá nhân như thế nào sẽ tác động đến tinh thần và khả năng xử lý tình huống của bạn. Hầu hết mọi người để mặc cho cảm xúc và trực giác định hướng việc giải quyết vấn đề của họ. Nếu ai đó được hỏi làm cách nào để giải quyết vấn đề cá nhân, câu trả lời hầu như luôn luôn là: thu thập dữ liệu, tìm ngay câu trả lời, tuân theo cảm xúc, bảo vệ quyền lực và địa vị, phân tích và mổ xẻ, hoặc làm điều gì đó mà người khác đã làm.

Cách tiếp cận thường thấy trước những vấn đề như thế thường dẫn đến những khó khăn và tổn thất không kể xiết. Giải pháp kém hiệu quả cũng gây thiệt hại cho cá nhân tại nơi làm việc, không chỉ vì sự tuyệt vọng do bị tác động bởi một câu trả lời yếu kém, mà còn vì quá trình tư duy giải quyết vấn đề bị giới hạn. Phương pháp quen thuộc mà các tổ chức kinh tế (và chính quyền) thường dùng để giải quyết vấn đề đã củng cố cho hành vi này - và kết quả là, vấn đề hầu như vẫn còn nguyên đó như ban đầu.

Những khủng hoảng mà chúng ta có thể gặp phải như trên chỉ là vài điều có thể dễ dàng kể lại. Thực tế vấn đề còn nghiêm trọng hơn vì số lượng những kết quả giải quyết vấn đề không hiệu quả, không triệt để, tràn lan, hoặc kéo dài là một con số khổng lồ.

Chẳng hạn, một vấn đề xem như được giải quyết nếu năng suất tăng lên 15% hoặc một sản phẩm mới được ra đời, và các bên đề xuất ý tưởng không đối đầu nhau. Tuy nhiên, thực tế đáng buồn là mức năng suất đó có thể được cải thiện đến 40% nếu các bên có thể dung hòa tốt hơn nữa theo một hướng tiếp cận khác. Thật đáng tiếc, chúng ta chẳng có thành tích ấn tượng nào trong việc đưa ra những quyết định tối ưu.

Cách đây hơn một thế kỷ, ngành công nghiệp Mỹ bị cuốn theo “học thuyết quản lý khoa học” của Frederick W. Taylor. Ông đã đưa cuộc cách mạng công nghiệp tiến xa hơn khi đề xuất những biện pháp phân chia quy trình sản xuất thành những công đoạn rất nhỏ, với sự đề cao vai trò kiểm soát quản lý. Những phát triển của ông trở thành tư tưởng truyền thống chủ đạo của phương Tây với ba luận điểm sau: tất cả các câu hỏi chỉ có một câu trả lời đúng duy nhất, tất cả các câu trả lời đều có thể được tìm ra, và mọi câu trả lời đều nằm trong một tổng thể tương hợp nhau.

Phương pháp Taylor đã nâng cao năng suất và hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp - đặc biệt về chi phí lao động - trong suốt hơn nửa thế kỷ. Nhưng khi bước sang thời đại mới - hoạt động sản xuất trở nên phức tạp hơn, cạnh tranh toàn cầu khắc nghiệt hơn, trình độ học vấn được nâng cao (ở Mỹ vào những năm 80, lực lượng lao động tốt nghiệp cao đẳng tăng từ 21% lên 26%, và tốt nghiệp trung học tăng từ 76% lên 85%), và chất lượng cuộc sống gia tăng cùng với mức lương, thì học thuyết Taylor không thể hiện được tính hữu ích của nó nữa. Mặc dù vậy, nhiều doanh nghiệp vẫn cứ tuân theo một cách cứng nhắc những nguyên tắc đã bị phá vỡ đó.

Vào những năm 1990, học thuyết Taylor được ứng dụng rộng rãi tại những doanh nghiệp có thuê lao động bán thời gian hoặc thời vụ và được xem là “phương thức hiệu quả” vì các công ty không phải mất khoản tiền trợ cấp cho nhóm lao động này. “Thuê nhân viên kế toán”, “thuê nhân viên điều hành”, “thuê y tá”, hoặc “thuê kỹ sư” có thể giảm bớt chi phí cho doanh nghiệp, nhưng để có mức giảm này thì doanh nghiệp phải trả giá bằng sự sụt giảm chất lượng sản phẩm hoặc dịch vụ và cả sự trung thành của khách hàng. Lý do là hầu hết các công ty đều theo nguyên tắc không để người lao động và các tập thể tham gia vào quá trình ra quyết định của doanh nghiệp. Vì vậy, những lợi thế cạnh tranh từ sự hợp tác trong công tác quản lý lao động đã bị đánh mất.

Khi so sánh tình trạng bất ổn của các tập đoàn Mỹ với môi trường kinh tế Nhật Bản ở thời kỳ “vỡ mộng” vào những năm đầu thập niên 1990, nhà tư bản công nghiệp Kounosuke Matsushita đưa ra kết luận: “Các tập đoàn Mỹ được xây dựng trên học thuyết kinh tế Taylor. Và tư duy của người Mỹ cũng vậy”.

Công ty Panasonic dưới sự điều hành của Matsushita thành công vang dội vì đã xem các lợi ích phụ là mục tiêu chính trong tiêu chí hoạt động của họ. Những mục tiêu này gắn kết hoạt động của công ty với việc cải thiện chất lượng cuộc sống và phúc lợi xã hội của người dân Nhật.

Giáo sư Peter Drucker, một trong những chuyên gia hàng đầu trong lĩnh vực quản lý, từng phát biểu rằng: “Các công ty Mỹ không tối đa hóa lợi nhuận mà tối đa hóa các bản tuyên bố về lợi nhuận.

Đồng nghiệp của Giáo sư Drucker, Giáo sư Richard Ellsworth đặt câu hỏi: Các công ty xác định mục đích tồn tại của họ như thế nào? Ở Mỹ, mục tiêu hàng đầu là phục vụ lợi ích của cổ đông. Còn ở Nhật Bản và các quốc gia khác, đó là phục vụ khách hàng và người lao động.

Điều này lại đưa đến một câu hỏi về mục đích đầu tư của các cổ đông. Có phải họ chỉ cần thu hồi vốn ngay lập tức? Hay họ muốn bảo đảm an toàn cho vốn đầu tư và phát triển sản phẩm, dịch vụ mới nhằm chiếm lĩnh thị trường? Nếu đó là mục đích cuối cùng thì sự tăng trưởng dài hạn rõ ràng lại là lợi ích tốt nhất của cổ đông mà các công ty cần quan tâm. Còn các dự đoán lợi nhuận ngắn hạn, ngược lại, chỉ khuyến khích các giải pháp tình thế vốn làm phát sinh thêm nhiều vấn đề phức tạp hơn là các giải pháp dài hạn. Tuy nhiên, các động thái “tức thời”, “phản ứng nhanh”, ngắn hạn thường là lựa chọn cải cách mang tính tổ chức và cá nhân, và rất có thể nó không mang lại kết quả nào nếu hệ thống hoạt động sai lầm.

Có lần, Giáo sư Nadler được mời tư vấn thiết kế điều kiện sản xuất mới để mở rộng gấp đôi diện tích sử dụng của một nhà xưởng. Nhưng khi ông hỏi các nhà quản lý công ty về mục đích của việc mở rộng, họ tìm ra được những mục đích lớn hơn, đó là: Phải đầu tư trang thiết bị để đáp ứng nhu cầu khách hàng bằng cách tăng không gian cho hoạt động vận chuyển nguyên vật liệu và hoạt động của nhân viên theo một hệ thống giám sát quản lý được sắp xếp lại. Vì vậy, một giải pháp thích hợp cho vấn đề hóa thành nhiều vấn đề nhỏ khác chứ không phải đơn giản được giải quyết bằng cách mua thêm gạch, xi măng, vữa xây và lắp đặt thêm máy móc. Như vậy, yêu cầu mở rộng diện tích nhà xưởng ban đầu không còn phù hợp nữa.

quangcaopro - (Trích cuốn sách "Tư duy đột phá" do Công ty First News phát hành)

Thiếu tầm nhìn - khó giàu







Năm 1973, Gary Kildall viết hệ điều hành phần mềm cho máy tính cá nhân có tên là CP/M. Năm 1980, IBM bắt đầu hướng đến việc phát triển máy tính cá nhân vì họ thấy được một thị trường tiềm năng trong lĩnh vực này.

Ngay sau đó, IBM tiếp cận Kildall với ý muốn sử dụng sản phẩm của ông như một phần cốt lõi trong sản phẩm mới của họ. Tuy vậy, Kildall không mấy nhiệt tình với ý tưởng này. Huyền thoại của Thung lũng Silicon nói rằng anh thà bay trên chiếc phi cơ mới của mình và rơi xuống còn hơn là ngồi chung thuyền với IBM.

Nản lòng trước thái độ bất hợp tác của Kildall, IBM đã chuyển hướng sang hệ thống phần mềm khác - họ tìm đến Bill Gates, người đồng sáng lập ra một công ty nhỏ có tên là Microsoft cùng với Paul Allen. Gates đã tạo ra hệ điều hành MS-DOS (thật ra nó được viết dựa trên một phần của CP/M). Và sau cùng, Gates đã đặt bút ký kết thỏa thuận, cho phép IBM cài đặt phần mềm của Gates trong các máy tính cá nhân của IBM, và sau đó hệ điều hành hiện diện trong 95% máy tính cá nhân trên toàn thế giới.

Trước khi Internet thực sự bùng nổ vào năm 2000, Bill Gates đã là người giàu nhất thế giới (1996 - 2007) với tài sản lên đến hàng chục tỷ đôla. Hiện nay Gates đã rút lui khỏi Microsoft và dốc sức vào các hoạt động từ thiện nhưng ông vẫn được xem là huyền thoại trong lĩnh vực phần mềm máy vi tính. Còn Gary Kildall mất vào năm 1994. Ông được xem là một trong những nhà lập trình máy tính tài ba nhất thế giới nhưng lại là một người không đủ tầm nhìn về tương lai để có những bước đi chính xác trong hiện tại.

Dĩ nhiên, Gary Kildall không phải là người duy nhất không có tầm nhìn đó. Theo tạp chí American Scientist, Thomas J. Watson Sr., người sáng lập IBM, nói rằng: “Tôi nghĩ ở thời điểm này (1943) nhu cầu máy tính trên toàn thế giới có lẽ chỉ cần khoảng 5 máy là đủ”. Vào năm 1951, Douglas Hartree, một nhà toán học xuất sắc tại Đại học Cambridge, đã tạo ra chiếc máy phân tích vi phân đầu tiên (tiền thân của loại máy tính hiện đại) ở Anh. Nhưng ông cho rằng không một ai cần dùng những chiếc máy này cho công việc của họ hoặc có thể có đủ tiền để mua chúng. Nếu cả Thomas lẫn Douglas có tầm nhìn như Bill Gates, rất có thể họ mới chính là những người đã tạo nên lịch sử trong lĩnh vực công nghệ thông tin.

Nhà bán hàng bậc thầy Mỹ - Zig Ziglar tâm sự: "Tôi đang nói với bạn về những điều tốt đẹp trong hiện tại để làm nền tảng vững chắc cho tương lai. Khi tôi viết quyển sách này, tôi đã ở vào tuổi bát tuần, đã trải bao thăng trầm và nếm nhiều đắng cay ngọt bùi của cuộc đời. Giờ đây, tôi muốn chia sẻ những kinh nghiệm quý báu mà tôi đã chắt lọc trong suốt vài chục năm qua để giúp bạn sống một đời viên mãn. Đó chính là lý do tôi thấy mình có đủ tư cách trở thành tiếng nói từ tương lai của bạn, chia sẻ với bạn những điều tôi biết, những tinh hoa của cuộc đời.

Tôi không dám nói rằng cuộc sống của mình đã viên mãn nhưng tôi dám chắc là mình hiểu được cuộc sống viên mãn là như thế nào, cách thức vươn đến ra sao. Và tôi thực sự rất muốn chia sẻ, nhắc nhở và thúc đẩy tất cả các bạn hướng về phía trước. Tôi tin rằng nếu bạn thực hành những điều tôi vừa trình bày với bạn, tương lai của bạn sẽ khác biệt hoàn toàn - thành công hơn, hạnh phúc hơn, viên mãn hơn! Bạn sẽ có một tầm nhìn đúng đắn về tương lai để nắm chắc vận hội của mình, để có một nền tảng vững chắc ngay hôm nay và có thể thụ hưởng thành quả ở ngày mai.

Nhiều người thường hỏi tôi rằng họ sẽ thay đổi điều gì trong cuộc sống của mình nếu họ được quay trở lại thời thanh niên. Tôi xin phép được mượn câu trả lời của một người phụ nữ mà tôi đã gặp cách đây nhiều năm - cô ấy bảo rằng mình sẽ không thay đổi bất kỳ điều gì cả, vì nếu thay đổi, cô ấy có thể sẽ không ở nơi mà cô ấy đang đứng bây giờ, nơi mà cô ấy yêu thích nhất. Đó cũng là điều mà tôi tâm niệm với tư cách là người phát ngôn cho tương lai của bạn - nếu bạn yêu cuộc sống với tất cả trái tim, tâm hồn và lý trí, thì cuộc sống này sẽ đáp lại bạn bằng những điều tốt đẹp như thế.

Sự viên mãn không thể có được khi ta chỉ gắng sức vun vén cho riêng mình. Có nghĩa là, một khi bạn giúp người khác đạt được ý nguyện và hạnh phúc thì bạn sẽ nhận được sự mãn nguyện và hạnh phúc. Và khi tôi xem đó như là sứ mệnh của đời mình, tôi cảm thấy vô cùng hạnh phúc trong việc động viên và thúc đẩy người khác khám phá ra mục đích sống thực sự của họ để sống có ý nghĩa và để lại di sản cho đời sau.

Chính vì xem đó như là sứ mệnh của đời mình nên tôi đã dồn mọi tâm sức, nhiệt huyết, niềm đam mê để thực hiện. Bất kể bạn làm nghề gì thì tất cả những gì bạn cần phải làm là tìm thấy mục đích sống của mình, nỗ lực thực hiện nó và trải nghiệm một cuộc sống trên cả tuyệt vời. Đó là một cuộc hành trình kéo dài đến suốt đời, một con đường thiên lý, một cuộc sống vĩnh hằng.

Tiến sĩ Tony Campolo cho rằng quá khứ của chúng ta rất quan trọng vì nó mang ta đến nơi mà ta đang đứng hôm nay. Quá khứ quan trọng là thế, nhưng nó gần như không quan trọng bằng cách mà bạn nhìn vào tương lai của mình, vì việc bạn nhìn vào tương lai sẽ xác định suy nghĩ của bạn ngày hôm nay. Và để có một tương lai xán lạn, bạn cần phải bắt đầu ngay từ hôm nay, ngay từ lúc bạn mở ra một chương mới trong cuộc đời mình.

Tôi còn nhớ có một hôm vào những năm đầu khi tôi mới bước vào nghề diễn thuyết, tôi đến diễn thuyết thay cho Tiến sĩ Norman Vincent Peale vì ông ấy bị ốm. Những người có mặt hiển nhiên đã rất thất vọng vì họ phải lắng nghe một kẻ vô danh như tôi thay vì Tiến sĩ Peale nổi tiếng của họ. Dù vậy, tôi vẫn không cảm thấy áp lực đè nặng mà cố gắng thể hiện hết khả năng của mình. Sau buổi diễn thuyết, một người phụ nữ đứng tuổi tiến lại gần tôi và hỏi về vật thay thế mà tôi có đề cập trong bài thuyết trình của mình. Thay vì giải thích cho bà về điều này, tôi đã kể cho bà nghe một câu chuyện ngắn.

Câu chuyện của tôi quay ngược thời gian vào lúc tôi còn là một cậu bé hiếu động, thích chơi bóng trong giờ giải lao ở trường tiểu học. Lúc đó, một cậu bạn cùng lớp không may đá quả bóng vào cửa sổ làm vỡ một ô cửa kính. Cô giáo của chúng tôi đã phải cắt một mảnh giấy cứng để lấp vào ô kính đó. Vì thế, tôi bảo với bà ấy rằng tôi giống như một tấm kính thay thế cho Tiến sĩ Peale. Với thiện ý và sự mãn nguyện hiển hiện trên gương mặt, bà hồ hởi đáp: “Vậy thì, ông Ziglar ạ, tôi không nghĩ ông là một tấm giấy cứng thay thế đâu. Tôi nghĩ ông thật sự là ‘một tấm kính có thật’”.

Những lời nói của bà dẫu rất hình tượng, nhưng tôi vẫn nghĩ về nó trong sự liên hệ với sứ mệnh đời mình. Thực sự, tôi muốn làm một điều gì đó có ý nghĩa để bạn soi rọi và hướng đến một tương lai tươi sáng, một cuộc sống tốt đẹp hơn. Vì thế, tôi muốn đến gần bạn hơn - tôi đến từ tương lai của bạn để khuyến khích bạn, van nài bạn hãy nhận lấy món quà hào phóng mà cuộc sống đã ban cho chúng ta. Đó là tình yêu thương, là lòng bác ái. Một khi bạn nhận được món quà vô giá này, bạn cảm thấy như có một động lực phi thường để hoàn thành những công việc hằng ngày, tìm thấy và vươn đến mục đích cuộc đời; bạn cảm thấy yêu thương những người xung quanh như yêu chính bản thân mình.

Hôm nay, tôi muốn nói với bạn rằng tương lai của bạn sẽ rất tuyệt vời nếu bạn bước vào đó ngay từ giây phút này để giao hòa với mọi người, với cuộc sống. Đừng để lỗ hổng trong tâm hồn bạn ngày càng mở rộng. Hãy lấp đầy nó bằng lòng yêu thương và tình nhân ái để sống một cuộc sống mà bạn hằng mơ ước.

Chúc các bạn sớm đạt đến một cuộc sống “Trên cả tuyệt vời”. 

quangcaopro - (Trích cuốn sách "Vươn tới sự hoàn thiện" do Công ty First News phát hành .

Khuyến mãi làm thượng đế phát cuồng

Khi thị trường bước vào giai đoạn bão hòa, cạnh tranh khốc liệt, ngoài yếu tố nâng cao chất lượng, nhà sản xuất áp dụng các chiêu thức khuyến mãi để câu khách.


Các chương trình khuyến mãi đều nhắm vào mục đích tăng nhanh doanh số và thường được quảng cáo bằng những poster treo tại các cửa hàng, gởi thư đi khắp nơi, quảng cáo trên báo và tờ bướm.


Doanh thu của các công ty trong hai thập kỷ qua đã tăng lên rất nhiều nhờ vào chi phí quảng cáo. Vào năm 1969, 53% trong tổng ngân sách dành cho việc tiếp thị được sử dụng vào mục đích quảng cáo. Hai mươi năm sau, Donnelly Marketing đã báo cáo rằng 70% ngân sách đó lại đổ vào những chương trình khuyến mãi.


Sau đây là 10 cách để giúp cho những chương trình khuyến mãi đạt được hiệu quả cao hơn:

Những chương trình giảm giá luôn thu hút sự chú ý của người tiêu dùng. Ảnh minh họa: thoitrang.


1. Thẻ giảm giá: Thẻ giảm giá là một trong những công cụ khuyến mại được sử dụng rộng rãi nhất. Theo NCH Promotional Services, các công ty ở Canada đã phát hành 2,32 tỷ thẻ giảm giá trong năm 2002. Trong số đó, 110 triệu thẻ đã được dùng đến. Những coupon như vậy đem lại nhiều lợi ích khác nhau:


- Giúp khởi động lại một nhãn hiệu đang xuống dốc.


- Giúp gia tăng thị phần trong một thời gian ngắn.


- Kích hoạt sự chú ý của khách hàng đến nhãn hiệu của bạn.


- Giúp bạn tiếp cận được với vô số khách hàng trong một thời gian ngắn.


- Giảm thiểu sự mất lòng tin của khách hàng. ACNielsen nói rằng những khách hàng sử dụng thẻ giảm giá thì trung thành với nhãn hiệu đó lâu hơn những khách hàng nhận được khuyến mãi ngay tại quầy.


- Lôi kéo sự chú ý của khách hàng đối với hương vị mới hoặc bao bì mới của sản phẩm.


- Khiến khách hàng muốn thử sản phẩm của bạn. Tính toán cho thấy rằng 65% trong tổng các coupon phát ra được sử dụng để giúp bạn tiếp cận với khách hàng mới (con số này là 50% cho các nhãn hiệu đã có vị thế).


Information Resouces Inc. đưa ra báo cáo rằng 25% (hoặc hơn) doanh thu của các nhãn hiệu nổi tiếng như nước súc miệng Scope, thuốc aspirin Bayer, sốt ướp thịt nướng của Kraft, ngũ cốc Kellogs và bột giặt Wisk đến từ coupon. Cho đến những năm cuối thập kỷ 80, người ta đã tính được rằng 20,8% doanh thu của các mặt hàng thức ăn nhanh đến từ các coupon giảm giá hoặc coupon đặc biệt.


Theo một báo cáo của Nielsen, 58% tổng số hộ gia đình ở Mỹ dùng đến thẻ giảm giá vào năm 1971, 65% vào năm 1975 và 76% vào năm 1980. Số khách hàng sử dụng thẻ giảm giá nhiều nhất rơi vào các gia đình thuộc tầng lớp trung lưu.


Mức độ thông dụng của thẻ giảm giá thay đổi tuỳ theo quốc gia. Tỷ lệ ở Canada trong năm 2004 là khoảng 4%, trong khi con số đó là 56% ở Bỉ, 16% ở Ý và Tây Ban Nha, và 7,5% ở Anh.


Coupon (thẻ giảm giá) có hai nhược điểm. Thứ nhất, hơn 20% số coupon bị sử dụng vào các một cách gian lận và càng ngày càng khiến cho các nhà kinh doanh phải đau đầu. Đồng thời, coupon vẫn thất bại trong việc gia tăng lòng trung thành của khách hàng đối với một nhãn hiệu nào đó hoặc trong việc tăng doanh số bán ra xét về tầm trung và lâu dài. Trên thực tế, chỉ có 1 trong 10 chiến dịch giúp gia tăng hơn 10% doanh số bán ra.


2. Các sự kiện đặc biệt: Những sự kiện như vậy giúp bạn vươn đến một lượng khách hàng vốn dĩ không quan tâm nhiều đến quảng cáo Ngay cả những sự kiện đặc biệt không phải dành cho giới cao cấp vẫn là một công cụ quan trọng trong nỗ lực trong hoạt động tiếp thị của bạn.


GM (General Motors) tổ chức những chương trình đặc biệt ngoài trời chỉ dành riêng cho những người sở hữu xe Saturn. Molson đầu tư 30% đến 40% ngân sách hàng năm dành cho các hoạt động truyền thông và marketing vào việc tự tổ chức các sự kiện và tung sản phẩm mới.


3. Sản phẩm thử: Phân phát sản phẩm thử miễn phí là một phương tiện đầy uy lực trong việc thúc đẩy doanh số bán ra cho một sản phẩm hiện có, hoặc cho một nhãn hiệu mới ra đời. Ngay cả khi không có các nỗ lực quảng cáo hay khuyến mãi khác, 33% số người nhận được một mẩu sản phẩm thử cho một nhãn hiệu cà phê mới sẽ kể lại cho bạn bè và gia đình nghe về nhãn hiệu đó.


Trong ngành công nghiệp thực phẩm, các sự kiện nếm thử sản phẩm có thể kích hoạt việc mua sản phẩm ngay sau khi thử 8 trên 10 lần. Đối với ngành công nghiệp sản xuất nước hoa, mẩu thử, chứ không phải là quảng cáo, thường là yếu tố tạo nên sự khác biệt. “Chúng ta sẽ vẫn cần đến quảng cáo để xác lập hình ảnh nhãn hiệu, nhưng chúng tôi đã phát hiện ra rằng điều quan trọng nhất ta có thể làm cho một mùi hương mới là đưa nó đến tận tay người tiêu dùng.” Sharon LeVan, Phó Chủ Tịch Hãng mỹ phẩm Max Factor phát biểu.

4. Quà tặng:
Quà tặng là một phương tiện khác để kéo khách đến cửa hàng. McDonald’s phát ra đến 1,5 tỉ đồ chơi trên toàn thế giới mỗi năm. Trên thực tế, McDonald’s và các đối thủ cạnh tranh phát ra lượng đồ chơi chiếm đến gần 1/3 tổng lượng đồ chơi phân phối hàng năm tại Mỹ.



Nếu bạn khuyến mãi bằng cách tặng quà, hãy bảo đảm đó là một món quà bất ngờ. Sự tò mò là một trong những động lực có tính thôi thúc cao nhất xét về bản năng con người. Nếu bạn nói chính xác bạn sẽ tặng gì, một vài người sẽ vẫn cần nó, nhưng sẽ có một số đông đáng kể quyết định rằng họ không cần nó. Sự bất ngờ luôn làm mọi người thú vị.


5. Giảm giá: Hơn bao giờ hết, giá sản phẩm là yếu tố then chốt trong marketing và nó khiến khách hàng mua hoặc tránh xa sản phẩm của bạn. Một nghiên cứu của Cahners Advertising Research Report cho thấy 98,7% khách hàng bị ảnh hưởng bởi giá khi họ mua một sản phẩm nào đó.


Việc thiết lập giá sản phẩm đòi hỏi sự tính toán rất phức tạp và đầy tính khoa học. Hầu hết các nghiên cứu cho thấy sản phẩm có giá kết thúc bằng số lẻ đạt doanh số cao hơn các sản phẩm có giá kết thúc bằng số chẵn. Khoảng 80% giá sản phẩm kết thúc bằng số 9 hoặc 5.


Jo Marney, một chuyên viên tư vấn về quảng cáo/truyền thông ở Toronto cho rằng: “Định giá là một môn khoa học phức tạp và thay đổi theo sản phẩm và thị trường. Rất nhiều sách marketing căn bản cho rằng giá kết thúc với các số lẻ (ví dụ 1,3,5,7,9), hoặc gần một con số làm tròn nào đó (ví dụ: 99, 98) sẽ làm tăng độ nhạy của khách hàng. Năm 1969, Lawrence Friedman (tác giả cuốn Psychological Pricing in the Food Industry. Tạm dịch: Cách định giá dựa vào yếu tố tâm lý trong lĩnh vực thực phẩm) chỉ ra rằng việc những mức giá nhất định có tác động lên tâm lý người mua hàng xuất phát từ một thực tế đã có từ lâu, vì ông phát hiện những giá kết thúc bằng số “9” hoặc “5” chiếm gần 80% giá thực phẩm bán lẻ. Gần 50% các khuyến mãi giảm giá là bội số của 5, nhưng những kiểu giảm giá số chẵn lại chiếm ưu thế hơn.


Kết quả nghiên cứu bởi Edward Blair và Laird Landon đăng trên tạp chí Journal of Marketing mùa xuân năm 1981 cho thấy rằng khách hàng cảm thấy họ tiết kiệm được nhiều hơn với giá quảng cáo khi so sánh nó với một giá chuẩn nào đó. Tuy nhiên giá chuẩn này không phải lúc nào cũng được chấp nhận như là so sánh thực khi tính toán xem mình tiết kiệm được bao nhiêu. Trong một nghiên cứu, khách hàng được giảm giá dựa theo những giá chuẩn như vậy khoảng 25%.


Brian Wansink đã có một khám phá thú vị khi tung hứng với giá cả và hình thức sản phẩm. Nếu khách hàng được mua súp đóng hộp với giá 79 cent không giới hạn số lượng, thường thì họ sẽ mua 3 hoặc 4 hộp cùng lúc. Tuy nhiên, nếu áp đặt giới hạn một khách chỉ được mua 12 lon, khách hàng sẽ mua trung bình khoảng 7 hộp, nghĩa là tăng số lượng mua tăng lên đến 112%. Trong cùng một mạch như vậy, một poster quảng cáo khuyến mại mua 4 hộp với giá 4 đô la sẽ bán chạy hơn lời chào mời “1 lon giá chỉ 1 đôla”.


Trong bất kỳ trường hợp nào, hãy kiểm tra kỹ nội dung thông báo khuyến mãi trước khi gửi đi in chính thức. Năm 1993, một mẩu quảng cáo cho hãng hàng không Continental Airlines trên tờ Boston Globe với nội dung khuyến mãi giá vé cho các chuyến bay từ Boston đến Los Angeles là 48 đô la thay vì 148 đô la. Chỉ thiếu mỗi số 1 mà hãng này phải chịu một khoản lỗ đến 4 triệu đô la.


6. Bao bì đặc biệt: Hãy sử dụng bao bì để quảng bá sản phẩm của mình bất cứ khi nào có thể. Trong giai đoạn nghỉ lễ cuối năm 1990, Coca-Cola bán ra loại chai chỉ dành cho kỳ lễ năm đó theo kiện 6 chai, trọng lượng 6 ½ ounce có in hình ông già Nô-en trên thân chai. Trong kỳ Giáng Sinh, Anheuser-Busch đổi thiết kế bao bì thông thường của mình sang kiện 12 chai và 24 chai Budweiser với hình ảnh những đội ngựa đua Clydesdale đứng trong tuyết. Nhưng “chỉ có các nhãn hiệu với danh tiếng đã được xác lập mới có khả năng tung hứng với các chi tiết bao bì đã được đăng ký của mình”, theo phát biểu của Howard Alport thuộc Lipson-Alport-Glass & Associates.


Luật này thì đã rõ, hãy nhớ kiểm tra bao bì sản phẩm của mình trước khi tung ra thị trường. Chương trình khuyến mãi Magic Summer năm 1990 (tạm dịch “Mùa hè diệu kỳ”), một trong những chiến dịch lớn nhất trong lịch sử của hãng Coca-Cola, đã bị ngưng đột ngột khi “thiết bị khuyến mãi” trên khoảng 750,000 lon nước giải khát có ga này có vấn đề. Thiết bị này đáng lẽ sẽ bung ra các loại giải thưởng trị giá từ 5 đến 200 đôla khi mở nắp lon, nhưng có lúc nó lại bị xì hơi thay vì bung lên.


Có ít nhất một đứa trẻ đã uống phải thứ nước được dùng để thay thế nước Coke trong các lon có giải thưởng. Nhiều đứa trẻ khác lại ngạc nhiên khi thấy từng cuộn đôla rơi ra khỏi lon của mình. Sau chót, Coca-Cola còn bị “quật tơi bời” khi gửi các lon nước có giải thưởng đến cho các nhà báo với danh nghĩa khuyến mãi. Toàn bộ nỗ lực khuyến mãi này biến thành một thảm hoạ tài chính đầy nhức nhối.


Taco Bell đã thu hồi 300.000 chai nhựa sau khi phát hiện ra rằng có một đứa trẻ đã tự tháo rời được phần thân trên của chai và đã thử nuốt phần miệng chai. Hardee’s Food Systems tự nguyện thu hồi 2,8 triệu đồ chơi khuyến mãi sau khi một vài đứa trẻ cố nuốt thử pin của đồ chơi.

7. Miễn phí và tặng thêm:
Trong một thế giới nơi sự bất trung thành của khách hàng đã trở thành một hiện tượng phổ biến, những mẩu quảng cáo có kèm sản phẩm miễn phí (“Mua 3 tặng 1”) và những đề nghị đặc biệt khác (“dầu xả miễn phí kèm theo dầu gội đầu”) chắc chắn sẽ “ăn tiền”.



8. Các chương trình khách hàng thân thiết: Tem tiết kiệm (Saving stamps) là một trong những chương trình tạo lập khách hàng thân thiết đầu tiên. Sperry & Hutchinson giới thiệu giới thiệu loại Tem Xanh S&H – S&H Green Stamps - ở Jackson, Mississippi vào năm 1896 với mục đích đơn giản là để thưởng cho sự trung thành của khách hàng. General Mills giới thiệu cách tính điểm thưởng Betty Cocker vào thập niên 1920. Vào thập niên 1950, các công ty sản xuất thuốc lá bắt đầu các chương trình khách hàng trung thành bằng cách kèm coupon vào các gói thuốc.


Chương trình khách hàng thân thiết bắt đầu phát triển mạnh vào thập niên 1980. Các hãng hàng không là những công ty đầu tiên nhận ra tiềm năng của chiêu thức này.


Chương trình khách hàng thân thiết cũng được tạo lập và giữa thập niên 1980 bởi rất nhiều các chuỗi khách sạn lớn như Marriott, Holiday Inn, Radisson và Hyatt. Một nghiên cứu của Radisson cho thấy 70% tổng số khách du lịch được điều tra bị ảnh hưởng bởi chương trình khuyến mãi theo phương thức này.


Ngày nay, người ta tính toán được rằng có đến 60% dân số Canada có thẻ khách hàng thân thiết, trong khi có gần 70% khách mua hàng người Mỹ có tham gia ít nhất một chương trình khách hàng thân thiết. Các chương trình khách hàng thân thiết được dựa trên một lập luận căn bản rằng 80% tổng doanh thu đến từ 20% tổng số khách hàng, bất kể hình thức chương trình. Một công ty có thể bảo đảm đạt chỉ tiêu tài chính nếu thu hút được 20% số khách hàng này.


Những chương trình khách hàng thân thiết như Air Miles, Optimum và Aeroplane ở Canada không chỉ giúp đẩy doanh thu của công ty mà còn giúp cho công ty hiểu hơn về khách hàng của mình. Zellers đã duy trì được chương trình khách hàng thân thiết của mình suốt gần 15 năm qua. Club Z có gần 10 triệu khách hàng thành viên, trong đó 7,6 triệu thành viên mua hàng đều đặn hàng tháng.


Chương trình khách hàng thân thiết của Canadian Tire với loại tiền riêng Canadian Tire là một ví dụ khác về một kế hoạch độc đáo và hiệu quả được khởi sự từ năm 1958. Khách hàng quay lại cửa hàng và mua đến 80% số tiền in đặc biệt của hãng. Ước chừng có một số lượng tiền in đặc biệt này trị giá khoảng 200 triệu đô la Canada được lưu hành. Tiền mặt có thể được thay thế bằng tem. Trong cả hai trường hợp, ý tưởng vẫn là một: mang khách hàng quay trở lại với cửa hàng hoặc sản phẩm của mình. Viagra mới vừa giới thiệu Thẻ Giá Trị (Value Card) của hãng mình. Với 6 lần mua kê đơn Viagra, khách hàng sẽ được miễn phí lần mua thứ 7.

9. Hạ giá và hoàn thêm tiền cho hãng đã mua (Mail-in rebate):
Phương pháp này ngày càng trở nên phổ biến, đặc biệt trong lĩnh vực máy tính. Cách giảm giá này mang lại lợi ích to lớn cho nhiều công ty khi những số liệu thống kê nội bộ của họ đã chỉ ra rằng có một số lượng lớn khách hàng thường quên quyền được “đòi” thêm tiền giảm giá.



10. Các cuộc thi: Các cuộc thi là phương pháp hào hứng nhất để áp dụng đối với khách hàng. Những cuộc thi làm mọi người thử dùng các sản phẩn mới và làm tăng sự yêu thích của khách hàng.Trong nhiều năm, nhiều công ty đã đưa ra những loại giải thưởng cụ thể như nữ trang, tiền, các loại thẻ, tàu thuyền…


Nếu bạn muốn thực hiện một chương trình khuyến mãi kiểu này, đừng mắc phải những sai lầm của các công ty như Kraft, Anheuser-Busch và Maytag, họ đã in ra quá nhiều phiếu may mắn. Vào năm 1993, chi nhánh Maytag ở Anh không thể tránh khỏi tai họa khi chi nhánh này đã khuyến mãi vé máy bay miễn phí cho những khách hàng mua ít nhất 150 đôla – và đã có đến 200.000 khách hàng nộp phiếu đăng ký cho những tấm vé máy bay miễn phí này.


Pepsi-Cola đã phải đấu tranh với 800.000 người thắng giải ở Philippines khi công ty đưa ra con số trúng giải sai lệch trong một cuộc thi. Những công ty đa quốc gia đã phải đối mặt với những cuộc biểu tình có bạo lực. Pepsi cuối cùng đã giải quyết vấn đề này bằng cách chi trả 20 đôla cho từng người có con số trúng thưởng.


Cùng lúc, bạn cũng phải chắc chắn rằng sẽ có số lượng người trúng giải hợp lý trong chương trình của bạn. Chương trình khuyến mãi của hãng Coca-Cola vào năm 1992 tại Thế Vận Hội đã không có lấy một người trúng giải.


Hoạt động quảng cáo đang dần dần thay đổi cách thức chúng ta mua sắm. Những yêu cầu về thông tin và các tài liệu sản phẩm, sử dụng thử và thể thành viên của các câu lạc bộ đã tạo ra cuộc cách mạng bằng những nổ lực của các chương trình khuyến mãi. Rủi thay các cuộc nghiên cứu đã cho biết rằng sự trung thành của người tiêu dùng cho các sản phẩm đã bắt đầu giảm từ đầu những năm 80. John Philip Jones đã nói rằng hiện nay người tiêu dùng chắc chắn sẽ mua một nhóm bốn hoặc năm nhãn hàng khác nhau thay vì chỉ một nhãn hàng như trước kia và họ sẽ thay đổi việc sử dụng từ nhãn hàng này sang nhãn hàng khác trong các tình huống khác nhau.


quangcaopro - (Trích cuốn sách "Ý tưởng quảng cáo đột phá" do Công ty First News phát hành)

Sự may rủi của trái tim - A Hazard of Hearts - Barbara Cartland


by opal_82
Tác phẩm : Sự may rủi của trái tim
Tác giả : Barbara Cartland
Nguồn: Ficland.info
Người dịch: Thuannguyen, Nishan, Opal
Làm ebook: Opal
Barbara Cartland là một tác giả khá nổi tiếng với dòng tiểu thuyết lãng mạn. Truyện của bà nhẹ nhàng mà sâu lắng, với những miêu tả sâu sắc về nội tâm nhân vật.
Sự may rủi của trái tim - A Hazard of Hearts - là một trong những tiểu thuyết mà Opal thích từ khi còn nhỏ. Phim chuyển thể từ tác phẩm này, đã được chiếu trên Truyền hình Việt Nam năm 1995, cũng là bộ phim rất....rất hay (đặc biệt là nhân vật nam chính đẹp trai cực kỳ :yes4lo:). Phim này thuộc dạng đồ cổ quý hiếm vì cho tới giờ thì chả ai tìm nổi bản dịch tiếng Việt hay thậm chí là phụ đề tiếng Anh cả :no6xn:(opal tìm mỏi mắt rồi nên chắc chắn đấy)
Xin phép mod được post link trên youtube của phim này (hi vọng không bị warn) để các bạn chưa xem phim được ngắm anh Justin đẹp trai. Đây là bản tiếng anh không có phụ đề .
Còn tóm tắt thì....:cool:đảm bảo không phải hối hận khi đọc đâu nên Opal chả tóm tắt làm gì nữa...

File Kèm Theo
Barbara Cartland - Su may rui cua trai tim.rar (495.9 KB)

quangcaopro -

Origami from Angelfish to Zen

by vn123
Origami from Angelfish to Zen



Download

quangcaopro -

The Words You Need

by vn123
The Words You Need.


Download

quangcaopro -

(Fantasy Lover) - Sherrilyn Kenyon

Người tình kỳ ảo
by yutakachan
"Kính thưa Quý độc giả!

Bị giam giữ trong một căn phòng ngủ với một người phụ nữ là cả một hạnh phúc. Nhưng bị giam trong hàng trăm căn phòng ngủ suốt hơn hai nghìn năm lại là chuyện khác. Bị một lời nguyền giam giữ trong một cuốn sách để trở thành một nô lệ tình yêu vĩnh viễn có thể khiến một chiến binh Sparta gục ngã.

Là một nô lệ tình yêu, tôi biết tất cả mọi điều về phụ nữ. Tôi biết phải chạm vào người họ như thế nào, chiều chuộng họ ra sao và trên hết, làm thế nào để họ cảm thấy hài lòng. Nhưng khi tôi được triệu hồi để phục vụ cho Grace Alexander, tôi đã tìm thấy người phụ nữ đầu tiên trong lịch sử coi tôi như một người đàn ông, một người đàn ông với quá khứ khổ đau. Cô ấy là người duy nhất để ý đến việc đưa tôi ra khỏi phòng ngủ và đưa tôi đến với thế giới. Cô ấy dạy cho tôi biết yêu trở lại.

Tôi sinh ra không phải để được yêu. Tôi mang lời nguyền phải cô độc vĩnh viễn. Là một tướng quân, đã từ lâu tôi chấp nhận hình phạt của mình. Nhưng bây giờ tôi đã tìm thấy Grace, người phụ nữ mà tôi - một người đàn ông với trái tim bị tổn thương - không thể nào sống thiếu được. Chắc chắn tình yêu có thể chữa lành mọi vết thương, nhưng liệu tình yêu có thể phá vỡ lời nguyền hai nghìn năm hay không?" - Julian xứ Macedon.

NXB Văn hóa - Thông tin giới thiệu:



File Kèm Theo
NGUI TINH KY AO (FANTASY LOVER) - SHERRILYN KENYON.rar (653.4 KB)

quangcaopro -

Xứ Tuyết - Yasunari Kawabata

by mylanus
…Song tác phẩm mang lại tiếng tăm thực sự cho nhà văn là cuốn XỨ TUYẾT. Được giới văn học Nhật thừa nhận là hiện tượng văn xuôi trữ tình quan trọng nhất lúc bấy giờ, XỨ TUYẾT lôi cuốn người đọc bởi những nét vô cùng đặc sắc của thế giới con người và thiên nhiên, được miêu tả bằng những màu sắc đầy chất thơ rất điển hình cho các tác phẩm của Kawabata. Dựa trên những tư liệu tươi mới, nhà văn mở ra cho người đọc cả một thế giới những ham muốn, hi vọng và xung đột trước kia chưa ai mô tả bao giờ.

XỨ TUYẾT được Kawabata xây dựng trong nhiều năm. Bắt tay viết từ năm 1934, mãi đến năm 1947 nó mới được viết xong. Thiên truyện đúng ra là gồm nhiều phần, được viết vào nhiều thời kỳ khác nhau.

Nội dung chính của tác phẩm là câu chuyện về Shimamura, một người đàn ông đứng tuổi, lớn lên và sống ở Tokyo, đáp xe lửa lên miền Bắc nước Nhật để thưởng ngoạn phong cảnh của vùng tuyết.

Trước mắt độc giả hiện lên phong cảnh giàu chất trữ tình của miềnt Bắc nước Nhật với không gian bao la phủ đầy tuyết, tràn ngập ánh nắng mặt trời, một khung cảnh nên thơ và quyến rũ lòng người.

Trên đường đời Shimamura gặp một kỹ nữ tên là Komako yêu chàng sâu sắc, bị dày vò bởi hi vọng vào tình yêu mà không hề nghĩ đến chuyện Shimamura có thể chia sẻ tình yêu với mình hay không.

Nhiều trang truyện vang lên như tiếng kêu xé lòng về tình yêu và nỗi cô đơn. Shimamura được miêu tả như con người không có khả năng chia sẻ tình yêu lớn lao của Komako. Vốn nhẹ dạ và nông nổi, anh ta đam mê hết thứ này đến thứ khác. Đang say mê âm nhạc và chưa học đến nơi đến chốn đã chuyển sang nghiên cứu múa dân tộc, rồi sau lại sang múa balê phương Tây...

Qua hình tượng Shimamura, Kawabata đã dựng nên bức tranh phần nào có tính châm biếm về tầng lớp trí thức Nhật vào những năm 1930.

Mặt khác, qua nhân vật Komako, Kawabata vẽ nên hình ảnh diễm tuyệt của người con gái Nhật Bản, như kiểu người con gái được miêu tả trong các tranh khắc màu truyền thống nổi tiếng của Nhật thế kỷ XVII- XVIII. Đọc các đoạn mô tả chân dung người kỹ nữ Komako, có cảm giác như trước mắt ta hiện lên những bức tranh khắc mê hồn của Moronobu hay Utamaro, vẫn được coi là đỉnh cao của nghệ thuật mô tả chân dung con gái Nhật.

Kawabata có biệt tài trong nghệ thuật tạo hình, biết truyền đạt mối quan hệ giữa con người chính xác đến mức người đọc không nghi ngờ gì về tính chân thực của nó.

Lửa và tuyết là hai yếu tố chính trong XỨ TUYẾT. Lửa cấu tạo nên tình yêu, thiêu đốt ba nhân vật: Shimamura, Komako và Yôko. Tuyết làm nền cho xứ mộng. XỨ TUYẾT lộ ra dưới "chân trời trắng" đẩy lùi bóng đêm trong đường hầm, ảnh ảo của một vùng đất có thật: đường hầm Shimizu (cách Tokyo 175 cây số về phía Bắc) nằm trên tuyến xe lửa Joetsu ngày trước nối liền Tokyo với Niigata. Người đi từ kinh thành Tokyo, chốn thị tứ ấm áp phía nam bên bờ Thái Bình Dương qua mười một cây số đường hầm, đến vùng tuyết trắng giá băng trên bờ biển Nhật Bản. Người đi, trốn Tokyo để đến xứ tuyết, trốn cuộc đời thực để tìm đến cuộc sống mộng ảo phù du.

XỨ TUYẾT thoạt tiên được Kawabata cho in từng đoạn, trên nhiều báo khác nhau, từ 1935 đến 1947. Trong vòng mười ba năm, từ 1935 đến 1948, các chương được ông viết đi viết lại nhiều lần. Giữa bản đầu, in năm 1937, và bản 1948, có một khác biệt sâu xa: ấn bản đầu chưa có đoạn đám cháy trên núi tuyết. Rất có thể, sau mười một năm kinh nghiệm sống và viết, nhà văn đã tìm thấy lửa như một kết cấu luân hồi: lửa sinh ra tình yêu và lửa cũng có khả năng hủy diệt, trở thành dứt điểm của tình yêu.

Kawabata dành mười ba năm để hoàn tất một cuốn truyện 250 trang.

Tác phẩm như một bức họa đen trắng đệm nhạc: nổi bật trên nền trắng của tuyết, của sáp mặt kỹ nữ geisha, là sắc đen trong màu tóc Komako, trong xiêm áo của nàng, là tiếng đàn shamisen réo rắt. Nếu trong truyện thật ngắn, Kawabata chỉ họa những nét phác chính, để trống những nét phụ cho người đọc vẽ vời thêm; thì trong tiểu thuyết, bút ông chạy những nét li ti, cực kỳ chi tiết vào vật chất, vào tâm hồn. Ông tạo hình như một nhà phân tâm học vừa tìm ra một mỹ cảm mới: rọi xuống đáy sâu trong lòng người bằng ngòi bút của một nghệ sĩ sành thơ và hoạ.

Người ta nói nhiều đến đôi mắt cực kỳ đặc biệt của Kawabata và những ai đã gặp ông, khó tránh bị thu hút bởi đôi mắt có khả năng xuyên suốt ấy, nhưng những người chưa gặp Kawabata, cũng có thể nhìn thấy đôi mắt lạ kỳ ấy trong tác phẩm của ông. Nhân vật bị ông thôi miên. Khả năng hút cạn nguồn sinh lực của nhân vật để nhả vào tác phẩm có một không hai của nhà văn độc đáo này làm bật tính khốc liệt trong những động tác bình thường gần như nhàm chán của cuộc sống hàng ngày.

Tình yêu tuyệt đối giữa Shimamura và Komako được soi trong con ngươi, con ngươi mà Apollinaire gọi là "chúa tể của mắt" (Christ de l’oeil) và Yoko hiện ra bên cạnh như chiếc bóng, trong gương của tình yêu.

Con ngươi phù thủy ấy thường trực hướng về phụ nữ. Mắt Shimamura trong XỨ TUYẾT (cũng như Kikuji trong Ngàn cánh hạc, Shingo trong Tiếng núi, Eguchi trong Người đẹp ngủ) đã bị đồng tử của Kawabata nhập vào. Rất có thể vì ông chưa tìm ra cách nhập được vào người phụ nữ, cho nên ông đành nhập vào những nhân vật nam trong truyện, mượn mắt của họ để chiếu vào người phụ nữ. Nhưng mỗi lần dở thủ pháp ra, Kawabata lại gặp trở ngại trước một thế giới huyền hoặc, mơ hồ, không sao soi tỏ được. Bởi mỗi người đàn bà là một hành tinh bí mật. Mỗi người đàn bà là một thái dương thần nữ, là một chủ thể của đam mê, dục vọng khác nhau….

Chúng ta sẽ còn gặp lại Komako cùng với Kikuji, Shingo, Naeko, Chieko…trong các bài viết nhận định về Kawabata trong phần phụ lục.
 

File Kèm Theo
XuTuyet.rar (259.3 KB)

quangcaopro -

Gia tộc ma cà rồng - Melissa Delacruz

by Gót sen
Gia Tộc Ma Cà Rồng
Tác giả: Melissa Delacruz.
Dịch giả: Trương Loan
Nhà xuất bản: Nxb Văn hóa Thông tin
Kích thước: 13.5x20.5 cm
Trọng lượng: 350 gram
Số trang: 364
Hình thức bìa: Bìa mềm
Ngày xuất bản: 09 - 2009
Giá bìa: 65.000 VNĐ
Giá bán: 35.000 VNĐ
Đánh máy: nhanchon, lolemhuyen, tsuki1983
Kiểm chính tả và tạo ebook: Gót sen



Nội dung truyện:
Trong các gia tộc quyền lực nhất ở New York, tồn tại một gia tộc bí ẩn của những người Mỹ nổi tiếng, tổ tiên của gia tộc này chính là những người còn sống sót sau cuộc hành trình Mayflower. Các thành viên trong gia tộc đều là những người giàu có, đầy quyền lực - và thật ra họ không phải là con người. Họ là Gia Tộc Ma Cà Rồng, một nhóm Ma Cà Rồng cổ.
Schuyler Van Alen chưa bao giờ hòa nhập được với Duchesne, một ngôi trường tư có uy tín ở thành phố New York. Cô thích mặc những bộ quần áo mang phong cách cổ điển, rộng thùng thình thay vì phải mang trên người những bộ đồ hiệu Prada hay những thứ ngọc trai như các bạn học khác, cô sống với bà ngoại, một người thích sống ẩn dật trong một tòa nhà cũ kĩ. Schuyler sống thui thủi một mình... và cô thấy hạnh phúc với cách sống này.
Nhưng khi tròn mười lăm tuổi thì cuộc sống của Schuyler bỗng thay đổi một cách đột ngột: cô phát hiện thấy những đường vân màu xanh nổi lên trên cánh tay, không những thế cô còn bắt đầu thấy thèm thịt sống. Thêm vào đó, cô bị cái chết của một nữ sinh nổi tiếng trong trường ám ảnh. Và điều kỳ lạ nhất là cô được Jack Force, chàng trai nổi tiếng nhất trường bất ngờ tỏ ra thích thú đối với cô.
Schuyler muốn tìm ra những điều bí mật mà Gia Tộc Ma Cà Rồng đang che dấu. Nhưng phải chăng chính cô đang bị nguy hiểm?
Đắm chìm trong những hiểu biết và các truyền thuyết về Ma Cà Rồng, đồng thời phản chiếu bức màn lộng lẫy của thành phố New York, tác phẩm Gia Tộc Ma Cà Rồng chắn chắn sẽ được người hâm mộ của Melissa De La Cruz đọc ngấu nghiến.

File Kèm Theo
Gia toc ma ca rong.rar (325.3 KB) 





Đây là 4 phần đầu tiên của bộ Blue Bloods (biết đến ở Việt Nam với tên Gia Tộc Ma Cà Rồng - Phần 1). Tớ ngó qua bên tủ sách ngoại ngữ các định dạng thì thấy có ba phần đầu bằng file pdf rồi. Ở đây, ngoài 3 phần đầu file .prc tớ bổ sung thêm ebook thứ 4.

Thứ tự đọc:

1. Blue Bloods
2. Masquerade
3. Revelations
4. The Van Alen Legacy
File Kèm Theo
Melissa De La Cruz - The Blue Bloods saga.rar (913.9 KB)


quangcaopro -

Xây dựng thương hiệu thời khởi nghiệp

Bài Viết Của Hồng Linh Đăng Trên "Tạp chí THẾ GIỚI DOANH NHÂN"
Giám đốc cty TÂNHOÀNGMAI độc quyền 2 thương hiệu nổi tiếng philiger và nano fresh có một bài viết được đăng trên tạp chí THẾ GIỚI DOANH NHÂN số 32))được đánh giá là một kinh nghiệm quý khởi đầu cho việc xây dựng thương hiệu cho các bạn khởi nghiệp kinh doanh... httP://philiger.com.vn






quangcaopro -

The Housekeeper and the Professor

The Housekeeper and the Professor - Yoko Ogawa (Giáo sư và công thức toán)
by NatPhung
The Housekeeper and the Professor - Yoko Ogawa



Starred Review. Ogawa (The Diving Pool) weaves a poignant tale of beauty, heart and sorrow in her exquisite new novel. Narrated by the Housekeeper, the characters are known only as the Professor and Root, the Housekeepers 10-year-old son, nicknamed by the Professor because the shape of his hair and head remind the Professor of the square root symbol. A brilliant mathematician, the Professor was seriously injured in a car accident and his short-term memory only lasts for 80 minutes. He can remember his theorems and favorite baseball players, but the Housekeeper must reintroduce herself every morning, sometimes several times a day. The Professor, who adores Root, is able to connect with the child through baseball, and the Housekeeper learns how to work with him through the memory lapses until they can come together on common ground, at least for 80 minutes. In this gorgeous tale, Ogawa lifts the window shade to allow readers to observe the characters for a short while, then closes the shade. Snyder—who also translated Pool—brings a delicate and precise hand to the translation.


Xem cảm nhận và bàn luận ở đây:
http://www.thuvien-ebook.com/forums/...ad.php?t=30153
 

File Kèm Theo
The Housekeeper and the Professor - Yoko Ogawa.rar (245.2 KB)


quangcaopro - Theo Amazon.com

“Tự do – Dũng cảm là chính bản thân mình”

Tác giả: Linh Thủy

"Tự do - trong bản thân nó không có nghĩa, chừng nào nó còn chưa là tự do vì cái gì đó... Tự do chỉ cung cấp cơ hội cho bạn, tự nó không phải là mục đích."

Tên thật của Osho là Rajneesh Chandra Mohan Jain (ông còn được biết đến với cái tên Bhagwan Shree Rajneesh). Chữ "Osho", một danh xưng tiếng Nhật Bản cổ, có nghĩa là "đạo sư" của một dòng Thiền.

Với hàng trăm tác phẩm, hàng ngàn bài giảng để lại, Osho là bậc thầy mang tầm ảnh hướng trong toàn bộ nền triết học phương Đông.

Những tác phẩm của ông có sức hút mãnh liệt với người đọc. Nó đã được dịch ra nhiều thứ tiếng và được tái bản nhiều lần. Nhưng người ta vẫn tiếp tục tranh cãi không ngớt về nó.

Osho bị/được coi như là một kẻ "nổi loạn". Rất ít người đi đến được sự đồng cảm với ông. Nhưng dù có phát cáu lên vì lối lập luận "bất chấp lẽ thường" của vị luận sư này, người ta vẫn cứ tiếp tục tìm đọc, vì một lẽ gì đó rất hợp lý.

Tuần Việt Nam xin giới thiệu tới bạn đọc cuốn "Tự do - Dũng cảm là bản thân mình" của Osho, do Ngô Trung Việt dịch.

Tự do tuyệt đối


"Tự do thực sự mang tính tâm linh"

Osho phân tích về tự do với ba chiều kích: chiều vật lí, chiều tâm lí, và cuối cùng là cái tự do tối thượng - tự do tâm linh.

"Bạn gọi tự do là gì? Phần lớn đều là chính trị, kinh tế, tự do bên ngoài, cái không ở trong tay bạn, cái đã được trao cho bạn. Nó có thể bị lấy đi. Chỉ cái đã lớn lên bên trong bạn mới không thể lấy đi khỏi bạn được.

Tự do thực sự không mang tính chính trị, kinh tế, xã hội; tự do thực sự mang tính tâm linh."

Ba dạng thức của tự do được mô tả: "Tự do với, thoát khỏi những ràng buộc về quốc tịch, nhà thờ, đảng phát, giống nòi, ý thức hệ. Khi đạt tới tự do này, bạn sẽ thấy nhẹ nhàng, và sung sướng. Và lần đầu tiên bạn sẽ cảm thấy bắt đầu hân hoan trong tính cá nhân riêng của mình.

Câu hỏi tiếp theo là: "Tự do vì cái gì? Tự do trong bản thân nó không có nghĩa, chừng nào nó còn chưa là tự do vì cái gì đó, cái gì đó sáng tạo."

Nhưng rồi như thế chưa đủ.

"Bạn cần hoặc là tạo ra cái gì đó, hoặc đem tiềm năng của mình vào thực tại hoặc đi vào bên trong để tìm ra bản thân mình. Bạn cần làm cái gì đó với tự do của mình. Tự do chỉ cung cấp cơ hội cho bạn, tự nó không phải là mục đích."

Đây mới là điều tận cùng của tư tưởng Osho về tự do.

Tình yêu

Một luận điểm căn bản trong tư tưởng của Osho là tôn trọng sự thiêng liêng của mỗi người, mỗi sự vật. Tất cả đều có sẵn Thượng đế bên trong. Tất cả đều là Thượng đế.

Ông viết: "Không một người nào được sinh ra trong thế giới mà không có khả năng nào đó làm cho người đó tự hào, người không thai nghén cái gì đó để tạo ra, để cho sinh thành cái gì đó mới và đẹp, để làm cho sự tồn tại giàu có hơn. Không một người nào đã tới thế giới này mà trống rỗng."

Trên cơ sở đó, mọi cá thể đều cần được tôn trọng tuyệt đối, để họ được chính là bản thân mình.

"Tình yêu đích thực chỉ khi nó cho tự do. Hãy để điều này là tiêu chuẩn. Tình yêu là đúng chỉ khi nó không can thiệp vào tình riêng tư của người khác.

Nhưng những người yêu mà bạn thấy trên khắp thế giới, toàn thể nỗ lực của họ là ở chỗ không cái gì được phép riêng tư... Họ sợ tính cá nhân, họ phá hủy tính cá nhân của nhau và họ hi vọng rằng bằng việc phá hủy lẫn nhau, cuộc sống của họ sẽ trở thành sự mãn nguyện.

Họ đơn giản trở nên ngày một khổ sở hơn."

Cha mẹ chỉ là người giúp đỡ cho con cái tự do


Luận sư Osho

Ông cũng có thái độ rất thẳng thẳn trong mối quan hệ giữa người sinh ra và người được sinh ra. Đó không thể là ràng buộc để người này phải chấp thuận các ý chí áp đặt của người khác.

Osho nói một cách rất rành mạch để cởi bở những nút thắt về sự hàm ơn và quyền hành trong mối quan hệ cha mẹ - con cái:

Phải có lòng dũng cảm và tình yêu mênh mông trong người cha, người mẹ, để nói với con cái: "Con cần tự do với chúng ta. Đừng vâng lời chúng ta, hay tùy thuộc vào sự thông minh riêng của con. Cho dù con có đi lạc lối, điều đó tốt hơn nhiều vẫn còn là nô lệ và bao giờ cũng đúng. Tốt hơn cả là hãy phạm sai lầm theo cách riêng của mình và học tư chúng, thay vì tuân theo ai đó khác và không phạm sai lầm, bởi vì thế thì con sẽ không bao giờ học được cái gì ngoại trừ việc đi theo - đó là chất độc, chất độc thuần khiết."

"Công việc của người cha hay người mẹ là lớn lao, bởi vì họ đang đem một vị khách mới vào thế giới - người còn chưa biết gì, nhưng người đem tiềm năng nào đó. Không cha mẹ nào thích nghĩ về con cái mình vẫn còn bất hạnh, họ muốn chúng được hạnh phúc. Vấn đề là cách nghĩ thông thường của họ là sai. Họ nghĩ nếu đứa con trở thành bác sĩ, giáo sư, kĩ sư, hay nhà khóa học, thế thì chúng sẽ hạnh phúc. Chúng lại không hạnh phúc!"

"Con cái chỉ có thể hạnh phúc nếu chúng trở thành điều chúng đã tới đây để trở thành. Chúng chỉ có thể trở thành hạt mầm mà chúng mang bên trong mình.

...Nỗi sợ của cha mẹ là con cái họ có thể đi theo hướng họ không thích - nhưng đó là vấn đề của bạn. Con cái bạn không được sinh ra để tuân theo cái thích hay không thích của bạn. Chúng phải sống cuộc sống của riêng chúng và bạn phải hân hoan rằng chúng đang làm như vậy - bất kì cái gì cuộc sống đang là."

quangcaopro - Theo tuanvietnam

Truyền hình thương mại bị "đo ván"

Tác giả: Nguyễn Thị Huyền (dịch từ EJC)

Thế kỷ 21 đánh dấu thời điểm “truyền hình thương mại “ mất dần chỗ đứng trong lòng công chúng.

Vì sao vậy?

Theo nhận xét của các nhà tâm lý học hiện đại, quá trình đáng buồn này diễn ra theo trình tự liên tục: phủ nhận, giận dữ và cuối cùng lại chấp nhận. Hội nghị thường niên lần thứ hai của Liên hiệp truyền hình các nước Châu Âu (ACT) được tổ chức vào cuối năm 2009 tại thủ đô Brussels (Bỉ), cho rằng lĩnh vực thương mại rốt cuộc đã đi tới giai đoạn thứ 3 – chấp nhận.

Sự kiện này đáng ra nhằm kỷ niệm 20 năm thành lập ACT, nhưng nó lại gần như là “câu hát cuối cùng” cho truyền hình thương mại.

Ngành truyền hình thương mại non trẻ những năm 90 là kết quả của việc pha trộn bốc đồng giữa sự hỗn loạn và các cơ hội thừa mứa như thể đi tìm vàng. Tới thời điểm mà thậm chí cả các phát thanh viên truyền hình cũng nhập cuộc cạnh tranh khốc liệt thì truyền hình lại trở thành những thước phim tái diễn lại cuộc sống thường nhật, ngay sau đó, cơn lũ khủng hoảng kinh tế ập tới cuốn trôi đi mọi sai sót.




Truyền hình trực tuyến của Nhật Bản Nguồn:online-tv.murgee.com


Ảo tưởng tan vỡ

Ngành công nghiệp truyền hình Châu Âu đã buộc phải nhận ra thực tại đáng buồn rằng, đằng sau sự tự huyễn hoặc về bản thân thực chất chỉ là ngành thương mại cực kỳ bình thường, thậm chí khá nguy hiểm. Các đài truyền hình chợt nhận ra họ đang nằm phía cuối băng chuyền, đồ ăn đang rơi vào miệng của các công ty viễn thông lớn và người khổng lồ Internet – những người luôn gây thu hút với những chương trình đầy hấp dẫn và luôn biết “thêm thắt” vào quan hệ với khách hàng của mình bằng việc sử dụng các hệ thống băng thông rộng tốc độ cao.

Thử lấy Đức ra làm ví dụ: năm 2008, toàn ngành truyền hình thương mại đạt được tổng số thu nhập vào khoảng 5 triệu Euro trong khi Deutsche Telekom lại một mình ôm trọn một khoản khổng lồ là 62 triệu Euro, đó là còn chưa kể tới hàng loạt những đối thủ cạnh tranh khác của họ.Và trong khi Deutsche Telekom có thể mua kênh truyền hình về thiên nhiên với một số tiền cực kỳ khiêm tốn thì họ lại không cần làm vậy. Họ muốn quan sát những sự đổi thay trong thói quen hàng ngày của mọi người khi chuyển từ truyền hình phát sóng sang truyền hình băng thông rộng.

Philippe Delusinne - Tổng Giám đốc đài phát thanh RTL Bỉ đồng thời là Chủ tịch ACT - người được hậu thuẫn từ Vincent de Dorlodot - Chủ tịch tư vấn của RTL Group, đã nhận định thị trường của quảng cáo truyền hình sẽ có hình dạng như chữ L. Nó hầu như không thể phục hồi từ mức độ thấp như hiện nay, ngay cả khi nền kinh tế quảng cáo nói chung có thể quay trở lại. Đồng thời, không thể phủ nhận được rằng cơ sở hạ tầng – vốn là thế mạnh cạnh tranh của truyền hình kiểu cũ - đang tuột dốc nhanh chóng.

Cách đây không lâu, các đài truyền hình có đặc quyền; bởi vì họ là những tổ chức duy nhất đã đưa các nội dung truyền thông đa phương tiện đến với một lượng vô cùng lớn các khán giả bằng sóng truyền hình hoặc qua dây cáp. Họ đã sử dụng cách thức tiếp cận đặc biệt này trở thành người tập hợp nội dung, nghĩa là, để mua và thực hiện các chương trình sau đó sắp xếp theo thứ tự. Thành công này phụ thuộc phần lớn vào việc “đánh hơi” đúng nội dung, các chương trình tổng hợp và đúng lúc. Xét cho cùng, tất cả các yếu tố đó sẽ không bao giờ trở nên lỗi thời, bởi lượng người xem truyền hình đang vẫn đang tăng, nhưng đó không còn là mục tiêu kinh doanh hàng đầu của họ nữa.

Những xu hướng và cách tân

Ngài Delusinne đã xác định "xem tivi trực tuyến" là một trong những sự thay đổi thành công nhất của ngành công nghiệp truyền hình trong những năm gần đây. Nó cho phép mọi người có thể xem miễn phí các chương trình qua mạng internet mà họ đã bị bỏ lỡ trên tivi trong vòng một tuần kể từ khi phát sóng lần đầu tiên. Đài truyền hình RTL của Pháp đã thống kê được hàng tháng có khoảng 50 triệu lượt người tải về các chương trình truyền hình trực tuyến. Điều này đã chứng minh cho chúng ta một điều rằng mọi người vẫn rất thích các chương trình truyền hình cá nhân, nhưng không nhiều đối với các kênh truyền hình có tên tuổi và với lịch cố định. Trong khi điều này thực sự là tin tốt cho ngành sản xuất nghe nhìn, thì nó lại là một tin dữ đối với các hãng truyền hình hữu tuyến.

Rudolf Strohmeier, Chánh văn phòng của Viviane Reding, đồng thời là thành viên của Cao ủy châu Âu về Truyền thông và Thông tin xã hội, đã chỉ ra rằng mô hình kinh doanh đó của họ đơn giản là đã quá lỗi thời. Ông cũng đã đề cập đến vấn đề vi phạm bản quyền, thế nhưng những phán đoán đó của ông về cơ bản đã vượt quá giới hạn của lĩnh vực này. Marietje Schaake thuộc Nghị viện Châu Âu đã phụ họa thêm rằng: công nghiệp truyền hình dường như cần phải có các quy định của châu Âu nhằm ngăn chặn cạnh tranh từ các lĩnh vực khác - và nó rõ ràng đang đi ngược lại với khuynh hướng cạnh tranh của EU là một thị trường thống nhất và các thông tin chính sách xã hội .

Thậm chí, Ủy ban châu Âu dường như sẽ không xem xét dựng lên các bức tường bảo vệ xung quanh các hệ thống truyền hình truyền thống. Họ có xu hướng làm điều ngược lại. Vừa qua, việc trung tâm truyền thông nghe nhìn AVMSD dỡ bỏ các giới hạn phân bố quảng cáo và sản phẩm trên truyền hình đã làm cho ngành công nghiệp này thỏa lòng.

Do vậy, các cuộc tranh luận tại ACT vẫn có phần tẻ nhạt. Thậm chí, việc tấn công vào vào một bên là hình thức tải nội dung một cách bất hợp pháp và bên kia là phát thanh truyền hình công cộng - hai ‘nguyên lý’ lâu năm của các hoạt động vận động hành lang truyền hình thương mại - dường như chỉ phản tác dụng.

Và sẽ thật là thiếu sót nếu không kể đến các đài truyền hình hữu tuyến đang ngày càng nhiều. Pekka Karhuvaara, giám đốc điều hành của Công ty truyền thông nghe nhìn MTV của Phần Lan (khác với kênh ca nhạc MTV) đã tán dương: "Sự kết hợp tuyệt vời giữa tivi và mạng Internet có thể ví với một cuộc hôn nhân trên thiên đàng vậy”.

Thế nhưng có lẽ ông đã hiểu nhầm về mối quan hệ này. Internet chỉ là hậu duệ chứ hoàn toàn không phải là đối tác bình đẳng của truyền hình.

quangcaopro - Theo tuanvietnam